𝐓𝐔̛́ 𝐍𝐈𝐄̣̂𝐌 𝐗𝐔̛́
( 𝑺𝒖̛ 𝑩𝒂̀ 𝑯𝒂̉𝒊 𝑻𝒓𝒊𝒆̂̀𝒖 𝑨̂𝒎 )
Phật dạy :
Tỳ-kheo như thật biết đây là 𝐤𝐡𝐨̂̉, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo.
𝟏) Thế nào là khổ :
Sanh, già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, mong cầu không được, năm ấm xí thịnh (lẫy lừng).
𝟐) Thế nào là khổ tập :
Tham ái đưa đến tái sanh. Cùng đi với hỷ, tham tìm cầu chỗ này chỗ kia. Thí dụ : dục ái, hữu ái và vô hữu ái.
Này các Tỳ-kheo ! Tham ái sanh khởi ở đâu ? An trụ ở đâu ?
— Sắc gì thân ái, sắc gì khả ái, tham ái sanh khởi ở đấy, an trụ ở đấy.
— Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ; Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Là sắc thân ái, là sắc khả ái. Tham ái sanh khởi ở đấy, an trụ ở đấy.
— Nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức ; Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỵ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc ; Nhãn thọ, nhĩ thọ, tỵ thọ, thiệt thọ, thân thọ, ý thọ. Là sắc thân ái, là sắc khả ái. Tham ái sanh khởi ở đấy, an trụ ở đấy.
— Sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng ; Sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư ; Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái ; Sắc tầm, thanh tầm, hương tầm, vị tầm, xúc tầm, pháp tầm ; Sắc tứ, thanh tứ, hương tứ, vị tứ, xúc tứ, pháp tứ. Là sắc thân ái, là sắc khả ái. Tham ái sanh khởi ở đấy, an trụ ở đấy.
𝟑) Thế nào là khổ diệt :
Diệt tận tham ái, không luyến tiếc, sẽ hoàn toàn giải thoát. Xả ly tham ái ở đâu ? Diệt trừ ở đâu ?
— Ở đời sắc gì thân ái, sắc gì khả ái, tham ái xả ly ở đấy, diệt trừ ở đấy.
𝟒) Thế nào là khổ diệt đạo :
— 𝑩𝒂́𝒕 𝒄𝒉𝒊 𝒄𝒉𝒂́𝒏𝒉 đ𝒂̣𝒐 :
* Chánh tri kiến : Thấy biết về khổ, tập, diệt, đạo.
* Chánh tư duy : Suy nghĩ về lìa dục, không sân, chẳng hại.
* Chánh ngữ : Không nói dối, không hai lưỡi, không ác khẩu, không thêu dệt.
* Chánh nghiệp : Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
* Chánh mạng : Không tự nuôi sống bằng những phương tiện trưởng dưỡng 3 độc tham sân si.
* Chánh tinh tấn : Nỗ lực, không cho pháp ác sanh. Nếu ác đã sanh quyết trừ diệt. Thiện chưa sanh khiến sanh khởi. Thiện đã sanh khiến tăng trưởng.
* Chánh niệm : Tinh cần, tỉnh giác 4 niệm xứ.
* Chánh định :
— Sơ thiền : Hỷ lạc do ly dục sanh nhờ tầm và tứ.
— Nhị thiền : Diệt tầm và tứ, hỷ lạc do định sanh, nội tỉnh nhất tâm. — Tam thiền : Ly hỷ, chánh niệm tự giác, thân cảm lạc thọ.
— Tứ thiền : Xả lạc, xả khổ, xả niệm, một bề thanh tịnh.
Như vậy Tỳ-kheo sống quán pháp trên nội pháp, sống quán pháp trên ngoại pháp, sống quán pháp trên nội ngoại pháp. Sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, sống quán tánh diệt tận trên các pháp, sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. Y cứ những pháp hiện tiền, Tỳ-kheo sống an trụ chánh tri với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Tỳ-kheo sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì ở đời.
** *
Này các Tỳ-kheo ! Tu tập 4 niệm xứ muộn thì 7 năm, trung bình từ 1 đến 6 năm, sớm thì 7 tháng, sẽ chứng chánh trí ngay trong hiện tại.
Đây là con đường thanh tịnh độc nhất, diệt khổ ưu, thành chánh trí, chứng Niết-bàn. Các Tỳ-kheo nghe pháp xong hoan hỷ tín thọ phụng hành.
( 𝑺𝒖̛ 𝑩𝒂̀ 𝑯𝒂̉𝒊 𝑻𝒓𝒊𝒆̂̀𝒖 𝑨̂𝒎 )
𝐈. 𝐐𝐔𝐀́𝐍 𝐓𝐇𝐀̂𝐍
Thở có ý thức. Thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra. Cứ 10 hơi không loạn là một bước đáng kể. Hiệu quả là trở về với mình. Vọng tưởng nổi lên, là ta đã bị cách biệt. Tập mãi quyết thành công.
𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐 𝒅𝒂̀𝒊 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐 𝒅𝒂̀𝒊. 𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂 𝒅𝒂̀𝒊 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂 𝒅𝒂̀𝒊.
𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐 𝒏𝒈𝒂̆́𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐 𝒏𝒈𝒂̆́𝒏. 𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂 𝒏𝒈𝒂̆́𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒕𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂 𝒏𝒈𝒂̆́𝒏.
Tâm đồng nhất với suốt chiều dài của hơi thở, đừng để một tạp niệm xen vào, gọi là tùy tức. Hơi thở đều đặn, êm dịu, nhẹ nhàng, thân tâm thư thái an vui.
Cảm giác toàn thân ta thở vào. Cảm giác toàn thân ta thở ra.
Hằng ngày chúng ta sống thân một nơi tâm một nẻo, nay thân tâm hợp nhất. Thân ngồi vững chãi, các bắp thịt khoan thư, hơi thở điều hòa thì thần kinh an định, tâm sẽ an ổn.
An định toàn thân ta thở vào. An định toàn thân ta thở ra.
Dùng hơi thở điều hòa nhịp tim, do đây thần kinh an dịu, giúp toàn thân an ổn vận hành. Hơi thở êm nhẹ, không có tiếng động, là triệu chứng sức khỏe tốt. Hơi thở càng vi tế, thân tâm càng an tịnh. Thở vào, cơ thể khoan khoái. Thở ra, đem đi những nhọc mệt ưu sầu. Đóng hết 6 cánh cửa giác quan, trở về với hơi thở, ta trở về với ta. Cảm thọ an lạc có tác dụng nuôi dưỡng.
Tỳ-kheo đi đứng nằm ngồi, thân thể được sử dụng như thế nào đều biết rõ. Tỳ-kheo bước tới bước lui, đắp y, mang bát, rửa chén, đều ý thức từng động tác của thân. Thí dụ : Lúc đi, phải chú tâm vào sự chuyển động của chân. Tâm cần ghi nhận “nhấc”. Rồi bàn chân mới nhấc lên khỏi mặt đất. Tâm ghi nhận “bước”. Bàn chân mới đưa ra. Tâm ghi nhận “đặt”. Bàn chân mới đặt xuống. Bên phải bên trái đều thế. Đến cuối đoạn đường, tâm ghi nhận “muốn quay” rồi thân mới quay.
Bữa ăn, tâm ghi “múc”. Tay mới múc canh. Tâm ghi “đưa”. Tay đưa thức ăn lên miệng. Tâm ghi “chạm” khi đưa thức ăn tới môi. Tâm ghi “vào”, thức ăn vào miệng. Tâm ghi “ngậm”, miệng ngậm lại. Nhai, nuốt, đặt tay xuống v.v... mỗi mỗi tâm làm chủ. Thân chỉ được cử động theo sự sáng suốt biết rõ của tâm, không được tự bừa bãi theo thói quen. Bắt tâm tập tỉnh sáng trong niệm hiện tại, không được lông bông vọng tưởng những chuyện quá khứ vị lai. Tâm ghi các cử động, được nhiều hay ít, tùy trình độ sáng suốt của mỗi người, cũng tùy hoàn cảnh được thong thả hay cần vội vàng. Chỉ quan trọng ở chỗ ta có chú tâm tỉnh thức hay không. Các bài tập trên luyện tâm an định nơi hơi thở không chạy theo 6 trần. Pháp môn này gọi là 𝐒𝐚𝐦𝐚𝐭𝐡𝐚 (𝐂𝐡𝐢̉).
Nay tập quan sát thân tâm. Pháp môn này gọi là 𝐕𝐢𝐩𝐚𝐬𝐬𝐚𝐧𝐚 (𝐐𝐮𝐚́𝐧)
Thiền Vô Tưởng có khả năng đưa lên cõi trời Vô-sắc. Nhưng không thể phát sanh Tuệ-giác. Nên không nói định sanh tuệ mà phải nói chánh định sanh tuệ. Chánh định là thứ định dùng cả 2 pháp Chỉ và Quán.
Thiền minh sát vừa dùng hơi thở để an định, vừa dùng trí quán để thấy thân tâm vô thường vô ngã. Do đây loại trừ 3 độc tham sân si là thứ ách nặng, chúng ta vẫn đeo từ lịch kiếp. Hoa báo hiện tại của Tuệ Minh Sát là hành giả trở nên khoan thai đĩnh đạc, chánh niệm trong tất cả động tác và ngôn ngữ.
— Tóc, lông, móng, răng, da.
— Thịt, gân, xương, tủy, thận.
— Tim, gan, bầy nhầy, bao tử, lá lách, phổi.
— Ruột già, ruột non, phân, óc, mật.
— Đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc, mỡ lỏng.
— Nước mắt, mước mũi, nước miếng, nước nhớp, nước tiểu.
Trước hết học thuộc lòng xuôi và ngược từng đoạn. Sau thuộc lòng xuôi và ngược cả 32 thể. Cứ đọc mãi cho tới khi nhập định vào một thể. Nếu không an định được thì phải quan sát từng bộ phận trong các khía cạnh : hình tướng, màu sắc, vị trí, bệnh hoạn, nhơ bẩn, để biết chán pháp hư vọng. Quán 32 thể trược cũng như 2 bài tập sau không phối hợp với hơi thở.
Quan sát trong thân những thứ kiên ngưng thuộc về đất, những thứ lưu nhuận thuộc về nước, những thứ có nhiệt lực thuộc về lửa, những động tác thuộc về gió, những không gian thuộc về hư không, những phân biệt thuộc về tâm thức. Quan sát tính cách tương quan tương duyên giữa ta và vạn vật. Mặt trời nằm ngoài cơ thể này nhưng nếu không có mặt trời, thân này đâu có sống được. Sự sống của ta không phải chỉ có mặt ở trong cơ thể. Thân kiến cho thân thể này là Ta, là của Ta, Ta chỉ ở trong thân thể này, là cái nhìn sai lầm.
Quan sát tính cách vô thường và chắc chắn phải tan hoại của cơ thể :
1) Xác chết sình nát.
2) Chó và kên kên rúc rỉa. 3) Bộ xương dính thịt.
4) Hết thịt chỉ còn máu. 5) Hết thịt hết máu.
6) Xương long rụng.
7) Xương chuyển màu.
8,) Xương mục.
9) Mớ bụi.
Can đảm nhìn vào sự thật sẽ hết bi quan mà biết quý đời sống, làm thế nào để khỏi phí uổng kiếp người khó được. Pháp quán bất tịnh này trừ ngã ái và theo đó các bệnh tham sân si cùng hết. Người tu vì chánh kiến nên giải thoát, vì khinh an nên vui vẻ.
Ôn lại 8 bài trên với dụng ý thấy tánh sanh diệt (vô thường) và duyên sanh (vô ngã) của vạn pháp. Sự giác tỉnh này giải thoát hết tham ưu. Con người đau khổ không phải tại thế gian vô thường vô ngã mà chỉ tại mờ ám sự thật đó nên cứ tự nẩy sanh phiền não. Cũng như 5 uẩn tự không lỗi, gốc của đọa lạc là ở chỗ chấp thủ (ngũ thủ uẩn).
Người có Tứ Niệm Xứ không vướng bận vào bất cứ một cái gì nên thảnh thơi an vui, không vất vả đuổi theo sự vật cũng không trốn chạy. Vì hằng dùng tư tưởng để đối diện với già bệnh chết, quen thuộc với già bệnh chết nên không sợ hãi. Quán chiếu vạn vật không phải để từ khước vạn vật mà để tiếp xúc với vạn vật bằng Tuệ-giác.
𝐓𝐮̛́ 𝐍𝐢𝐞̣̂𝐦 𝐗𝐮̛́ không vật lộn với tham sân si. 𝐓𝐮̛́ 𝐍𝐢𝐞̣̂𝐦 𝐗𝐮̛́ khai mở Tuệ-giác. Như thắp đèn để tối tự biến thành sáng chớ không phải mất công đuổi tối đi đâu.
𝐈𝐈. 𝐐𝐔𝐀́𝐍 𝐓𝐇𝐎̣
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒌𝒉𝒐̂̉ 𝒕𝒉𝒐̣ đ𝒂̃ 𝒔𝒂𝒏𝒉.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒌𝒉𝒐̂̉ 𝒕𝒉𝒐̣ đ𝒂𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒖̣.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒍𝒂̣𝒄 𝒕𝒉𝒐̣ đ𝒂̃ 𝒔𝒂𝒏𝒉.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒍𝒂̣𝒄 𝒕𝒉𝒐̣ đ𝒂𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒖̣.
Tập nhận diện những cảm giác : khổ (khổ thọ), vui (lạc thọ), không khổ không vui (si thọ). Mỗi khi có khổ thọ không xua đuổi, không xa lánh, bình tĩnh vừa theo dõi hơi thở vừa ghi nhận khổ phát sanh, khổ gia tăng, khổ dịu bớt, khổ diệt tận.
Mỗi khi có lạc thọ hay si thọ, cũng thực tập quán chiếu như thế, không tham đắm, không lồng mình vào, không nhận là ta vui mà thấy rõ đây là một cảm giác 𝐝𝐮𝐲𝐞̂𝐧 𝐬𝐚𝐧𝐡 (nhân là ngã ái, duyên là ngoại cảnh).
Không tham đắm cũng không ruồng bỏ gọi là xả. Xả là một trong 𝐓𝐮̛́ 𝐯𝐨̂ 𝐥𝐮̛𝐨̛̣𝐧𝐠 𝐭𝐚̂𝐦 (Từ, Bi, Hỷ, Xả).
Dòng sông là những giọt nước đang xê dịch. Thân thể ta là một dòng sông. Vô biên tế bào đang chuyển biến. Tâm ta cũng là một dòng sông. Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng, theo sự hoạt động của 6 giác quan.
𝑪𝒂̉𝒎 𝒕𝒉𝒐̣ 𝒗𝒖𝒊 đ𝒖̛𝒂 đ𝒆̂́𝒏 𝒉𝒂𝒎 𝒍𝒖𝒚𝒆̂́𝒏.
𝑪𝒂̉𝒎 𝒕𝒉𝒐̣ 𝒌𝒉𝒐̂̉ đ𝒖̛𝒂 đ𝒆̂́𝒏 𝒄𝒉𝒂́𝒏 𝒃𝒐̉.
𝑴𝒐̂̃𝒊 𝒄𝒂̉𝒎 𝒕𝒉𝒐̣ đ𝒆̂̀𝒖 𝒌𝒊́𝒄𝒉 𝒕𝒉𝒊́𝒄𝒉 𝒕𝒉𝒂𝒎 𝒉𝒐𝒂̣̆𝒄 𝒔𝒂̂𝒏 𝒏𝒐̂̉𝒊 𝒅𝒂̣̂𝒚.
Nay chánh niệm thì tình trạng bắt đầu thay đổi. Cảm thọ diễn biến dưới ánh sáng của ý thức. Chánh niệm không nhận nó là ta nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ.
- Hiệu năng đầu tiên là khôi phục lại chủ quyền, do đây cảm thọ đã mất 80% ma lực.
- Hiệu năng thứ hai, thấy được nguồn gốc của nó là vô minh. Do chấp ngã chấp pháp mà có cảm thọ.
- Hiệu năng thứ ba, biết tự tánh nó hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên.
Thí dụ : Cả ngày gắt gỏng cau có, nguyên nhân vì thức khuya thiếu ngủ. Đây là cảm thọ khổ gốc từ sinh lý. Có khi vì hiểu lầm một người bạn, ta cũng bực tức. Đây là cảm thọ khổ gốc rễ tâm lý. Có khi thấy trong nhà lộn xộn rác bẩn, ta cũng phát cáu. Đây là cảm thọ khổ vì vật lý. Được khen ta vui, quán chiếu, khám phá ra căn bản thọ vui là từ ngã ái. Lạc thọ này đưa vào ảo tưởng. Có tỉnh ra mới tránh được những tự hào tự mãn vô ích. Lạc thọ ảo hóa tan biến nhường chỗ cho cái vui lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ.
Cảm thọ rõ ràng bất định. Khổ vui tùy theo bản chất mỗi người. Đối với A làm việc là một cực hình. Nhưng với B ngồi không lại thật khó chịu. Bị nghẹt mũi mới biết thở là một hạnh phúc không chi hơn. Hàng vạn yếu tố của hạnh phúc như thế chẳng được để ý. Chúng ta cứ vô tình dẫm đạp trên hạnh phúc để đi tìm hạnh phúc. Đến khi mất rồi lại khổ vì hối tiếc.
Phật dạy ta dùng hơi thở quán chiếu sự có mặt của khổ vui rồi từ từ điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hóa cả 3 thọ. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự thống chế của nó.
𝐈𝐈𝐈. 𝐐𝐔𝐀́𝐍 𝐓𝐀̂𝐌
Tâm sở có nhiều, kinh văn chỉ đề cập đến 22 thứ. Phương pháp quán tâm cũng như quán thọ. Biết nguồn gốc, bản chất và hậu quả các tâm sở, liền được giải thoát.
Quán chiếu về tham dục :
Tham đắm sắc thanh hương vị xúc, gọi là ngũ dục. Tham tiền bạc, sắc đẹp, danh giá, ăn ngon, ngủ nhiều gọi là ngũ dục thô phàm. Bệnh tham khó chữa vì nó ngọt lịm và hấp dẫn.
Phật dạy tham dục là một hố than hồng, người bệnh tưởng lầm là ấm áp sung sướng.
Kinh dạy : Lúc không có mặt của tham dục, hành giả cũng ghi rõ.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐) 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒏 𝒕𝒂̣𝒊 𝒕𝒂̂𝒎 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒂𝒎.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂) 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒏 𝒕𝒂̣𝒊 𝒕𝒂̂𝒎 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒂𝒎.
Tìm nguồn gốc sự vắng mặt này. Ghi sự thảnh thơi đi đôi với sự vắng mặt này.
Quán chiếu về sân giận :
Ích lợi thứ nhất là kinh nghiệm có sân mất bình an. Sân giận quá nặng đi đến căm thù là chất liệu của địa ngục hiện tại và vị lai. Nguy hiểm của sân là kích thích thân miệng ý đi về đường ác. Một khi nhận diện được sân thì tâm sở này đỡ ngay tính cách tác hại.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒔𝒂̂𝒏 𝒈𝒊𝒂̣̂𝒏 đ𝒂̃ 𝒔𝒂𝒏𝒉.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒔𝒂̂𝒏 𝒈𝒊𝒂̣̂𝒏 đ𝒂𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒖̣.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒗𝒂̀𝒐) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒔𝒂̂𝒏 𝒈𝒊𝒂̣̂𝒏 đ𝒂̃ 𝒅𝒊̣𝒖.
(𝑻𝒉𝒐̛̉ 𝒓𝒂) 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒔𝒂̂𝒏 𝒈𝒊𝒂̣̂𝒏 đ𝒂̃ 𝒅𝒊𝒆̣̂𝒕.
Chánh niệm khôi phục tự quyền. Sân giận lặng đi, sự mát mẻ khoan khoái hiện ra gọi là vô sân. Vô sân phát triển thành từ bi. Trong 5 ấm, sân giận làm bực bội khó chịu là thọ ấm, dấy lên các suy nghĩ là tưởng ấm, chuyển biến tâm địa là hành ấm, bản chất chủng tử và hiện hành là thức ấm, các tướng mạo hiện ra là sắc ấm.
** *
Hành thiền chuyển phiền não thành Bồ-đề. Thế gian chán rác bẩn thích hoa hồng. Người làm vườn biết từ phân rác ra hoa hồng và từ hoa hồng thành phân rác nên dùng cả 2.
𝐏𝐡𝐚̣̂𝐭 𝐩𝐡𝐚́𝐭 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧 : 𝐂𝐡𝐮́𝐧𝐠 𝐬𝐚𝐧𝐡 𝐯𝐨̂ 𝐛𝐢𝐞̂𝐧 𝐭𝐡𝐞̂̀ 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧 đ𝐨̣̂ 𝐯𝐢̀ 𝐩𝐡𝐚́𝐩 𝐧𝐡𝐚̃𝐧 𝐭𝐡𝐚̂́𝐲 𝐫𝐨̃ 𝐓𝐡𝐚́𝐧𝐡 𝐩𝐡𝐚̀𝐦 𝐤𝐡𝐨̂𝐧𝐠 𝐡𝐚𝐢.
Chánh niệm như ngọn đèn soi tỏ những nguyên nhân gần xa của sân giận (hiểu lầm, tự ái, nghi ngờ, bộ thần kinh dễ bị kích thích, không thông cảm, hoàn cảnh giáo dục, tập quán, tâm lý v.v... Những gốc rễ này có mặt ở cả ta và người, làm tăng thượng duyên cho vô minh).
𝐓𝐡𝐚̂́𝐲 và 𝐇𝐢𝐞̂̉𝐮 là nền móng giải thoát giận hờn, đem cam lồ từ bi về xây dựng và hàn gắn những gì sân giận đã làm đổ vỡ.
Có người khôn ngoan, mỗi khi sân giận vào phòng ngồi yên một mình để tránh những hậu quả tai hại của thân miệng bất an. Dĩ nhiên như thế sân giận sẽ dịu dần. Nhưng không được bộc lộ ra ngoài, gốc rễ càng ăn sâu vào tiềm thức, chờ đợi đủ duyên lại bùng ra.
Người tu 𝐓𝐮̛́ 𝐍𝐢𝐞̣̂𝐦 𝐗𝐮̛́ dùng hơi thở trở về chánh niệm, không bận lòng đến đối phương. Hành động xấu xa, lời nói độc ác vừa xuất hiện đã tan. Ta để nó tan theo bản chất vô thường của nó. Vì cứ vơ lấy nghĩ ngợi nên mới tự đốt nhà mình.
An tịnh tâm hành tôi thở vào.
An tịnh tâm hành tôi thở ra.
Tỉnh ra rồi, biết kẻ làm hại mình chính là cái sân giận ảo tưởng. Mát mẻ trở lại, ta có
thể truyền sự mát mẻ này cho người kia mà cùng nhau hòa giải.
𝐏𝐡𝐚̣̂𝐭 𝐓𝐨̂̉ xưa kia bị chặt cả tay chân mà không sân giận vì nhẫn nhục có trí tuệ đi đôi. Biết âm thanh, sắc tướng đều hư vọng. Thân ta thân người chỉ là đất nước gió lửa giả hiện nên chẳng có nhục nào mà phải nhẫn.
𝐓𝐮̛̀ 𝐛𝐢 𝐪𝐮𝐚́𝐧 : Để đối trị sân giận.
𝐓𝐮̛̀ là bá thí an vui, tha thứ lỗi lầm cho kẻ khác.
𝐁𝐢 là cứu khổ.
Bản chất của 𝐓𝐮̛̀ là khoan dung, mong mỏi sự tốt đẹp cho mọi người.
Bản chất của 𝐁𝐢 là trí tuệ thấu được sự khổ đau của người khác mà phát tâm cứu vớt.
Quan sát 8 khổ, quan sát những nỗi khổ vật chất và tinh thần, sẽ khơi chảy được nguồn suối 𝐭𝐮̛̀ 𝐛𝐢.
𝐓𝐮̛̀ 𝐛𝐢 𝐪𝐮𝐚́𝐧 không phải chỉ có tác dụng lợi tha. Đem an vui cho người, chính mình được tiêu tai giải nạn. Bất cứ một hành động hay một lời nói phát xuất từ tâm từ bi, muốn tháo gỡ sự đau khổ cho người hay vật, đều đem an vui hiện tại và vị lai cho mình.
Kinh chép : Một thìa cháo với tâm từ bi cho người bệnh, công đức nhiều hơn nước biển đại tây dương.
Ta có thể rải tâm từ bi đi 4 phương cho tất cả chúng sanh. Luồng điện từ bi có khả năng đi xa cũng như âm thanh và ánh sáng.
Có chất liệu 𝐭𝐮̛̀ 𝐛𝐢 trong tâm thì một lời nói, một nét mặt, một cái nhìn, đều có phép lạ khiến những trái tim khô héo khôi phục lại lòng tin mà vui sống.
𝐈𝐕. 𝐐𝐔𝐀́𝐍 𝐏𝐇𝐀́𝐏
- 𝐀-
𝟏) Ngũ cái : 5 tâm sở nặng nề úp chụp tinh thần như một màn đen bọc kín ngọn đèn.
Ngũ cái là : ái dục, sân giận, hôn trầm, trạo hối và nghi ngờ chánh pháp. Tỳ-kheo soi tâm, khi có một trong ngũ cái phát khởi, liền tìm phương pháp trừ diệt không cho tái sanh.
𝟐) Ngũ ấm : Tỳ-kheo chiếu soi và nhận diện : Đây là sắc, đây là thọ, đây là tưởng, đây là hành, đây là thức. Để mặc cho 5 công dụng của tâm hiện hành rồi tự tan biến, như những người khách trọ đến rồi đi. Tập tách ra, nhìn chúng sanh rồi diệt, không có ta trong đó.
𝟑) Quán 18 giới : 6 căn đối 6 trần sanh 6 thức. Nội kết sanh trụ dị diệt mỗi mỗi đều biết. Không bị kích thích, không bị đánh lừa. Phân tách từng căn, trần, thức để thấy rõ nghĩa duyên sanh. Dù tinh thần dù vật chất, không một pháp nào chẳng căn cứ trên các pháp khác và tùy thuộc vào các pháp khác nên pháp nào cũng không tự tánh (vô ngã).
*) 𝐊𝐞̂́𝐭 𝐬𝐮̛̉ : Kết cùng nghĩa với chữ Tập và chữ Nghiệp. Kết là thắt trói. Sử là sai khiến.
— Ngũ độn sử : 5 kết sử trầm trọng khó bỏ : Tham, sân, si, mạn, nghi.
— Ngũ lợi sử : 5 kết sử sai khiến rất nhanh nhưng dễ tỉnh : Thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.
Bởi vì căn trần không lỗi nên quán pháp nơi pháp ở đây riêng ý thức về sự phát sanh, tồn tại và chuyển hóa của những nội kết. Đời sống tập thể của Tăng Ni rất thuận tiện để khơi các tiềm ẩn trong tâm thức. Có thấy được giặc, biết giặc ở đâu, mới trừ được giặc. Các kết sử tùy miên này đã bị lương tâm chúng ta dồn ép, đẩy xuống tận đáy lòng, nhưng chúng vẫn tiết chất độc vào trong ngôn ngữ và suy nghĩ hàng ngày của chúng ta. Chỉ có hành thiền, chánh niệm quán chiếu mới thấy được vết tích của chúng. Nên Tứ Phần Luật Lược Ghi có câu : “𝑫𝒖̀ 𝒓𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒕𝒂́𝒏𝒉 𝒈𝒊𝒐̛́𝒊 𝒈𝒊𝒂́ 𝒈𝒊𝒐̛́𝒊 𝒌𝒉𝒐̂𝒏𝒈 𝒕𝒓𝒂́𝒊 𝒑𝒉𝒂̣𝒎 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒊̉ đ𝒊𝒆̂̀𝒖 𝒏𝒈𝒖̛̣ đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒐̂ 𝒂́𝒄 𝒄𝒖̉𝒂 𝒕𝒉𝒂̂𝒏 𝒗𝒂̀ 𝒎𝒊𝒆̣̂𝒏𝒈. 𝑪𝒐̀𝒏 𝒑𝒉𝒊𝒆̂̀𝒏 𝒏𝒂̃𝒐 𝒗𝒊 𝒕𝒆̂́ 𝒍𝒂̀ 𝒄𝒐̀𝒏 𝒐̛̉ 𝑫𝒖̣𝒄 𝒈𝒊𝒐̛́𝒊. 𝑩𝒂𝒐 𝒈𝒊𝒐̛̀ đ𝒂̃ 𝒄𝒉𝒐́𝒊 𝒔𝒂̣𝒄𝒉 𝑻𝒉𝒊-𝒍𝒂, 𝒍𝒂̣𝒊 𝒃𝒊𝒆̂́𝒕 𝒍𝒂̣̂𝒑 𝒄𝒉𝒊́ 𝒐̛̉ 𝒕𝒉𝒊𝒆̂̀𝒏 𝒎𝒐̂𝒏, 𝒕𝒉𝒆𝒐 𝒕𝒉𝒖̛́ 𝒍𝒐̛́𝒑 4 𝒕𝒉𝒊𝒆̂̀𝒏, 4 đ𝒂̣𝒊 𝒕𝒉𝒂𝒏𝒉 𝒕𝒊̣𝒏𝒉 𝒄𝒐̃𝒊 𝑺𝒂̆́𝒄 𝒕𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒏 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒂̂𝒏, 𝒎𝒐̛́𝒊 𝒈𝒐̣𝒊 𝒍𝒂̀ 𝒍𝒂̀𝒏𝒉 (𝒕𝒉𝒊𝒆̣̂𝒏)”.
*) Đ𝐨̂́𝐢 𝐭𝐫𝐢̣ 𝐦𝐚̣̆𝐜 𝐜𝐚̉𝐦 𝐯𝐚̀ 𝐬𝐨̛̣ 𝐡𝐚̃𝐢 : Hối hận thuộc về bất định, có khi lợi ích có khi chướng ngại. Nhận được chỗ sai của mình, quyết tâm chừa bỏ. Xong rồi thôi, một dạ từ nay đi đường lành. Nếu mặc cảm tội lỗi cứ theo ám ảnh ray rứt thì làm sao bình an tiến tu.
Sợ hãi cũng là một nội kết quan trọng, chất liệu là vô minh. Các bậc có kinh nghiệm trong sự tu hành, đều quả quyết sợ hãi đi đôi với chấp ngã. Quán bất tịnh là thuốc thí vô úy hiệu nghiệm 100%.
-𝐁 -
𝟏) Bảy giác chi : Chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, vui mừng, khinh an, định tâm, hành xả. Tỳ-kheo quán chiếu trong tâm, chưa có 7 yếu tố trợ đạo này thì phải tập cho phát sanh. Đã có thì phải duy trì và biết sử dụng.
𝟐) Tứ Đế : Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trau dồi 4 trí tuệ này cho đến khi thành tựu quyết định.
—//—-//——
𝙆𝙀̂́𝙏 𝙆𝙃𝙐𝙔𝙀̂́𝙉
Trong Trung A Hàm, Phật dạy La Hầu La hành thiền 7 đề mục, khi cậu bé được 18 tuổi :
Niệm tâm Từ để diệt trừ ác ý.
Niệm tâm Bi để diệt trừ tàn nhẫn.
Niệm tâm Hỷ để diệt trừ phiền hận.
Niệm tâm Xả để diệt trừ thù oán.
— Quán bất tịnh để tiêu 3 độc tham sân si.
— Quán vô thường để giải thoát ngã mạn tự ái.
— Quán hơi thở để điều hòa cả thân và tâm.
Đức Phật dạy : “Người giác tỉnh đêm ngày thận trọng trọn vẹn hướng tâm về đạo pháp. Này các Tỳ-kheo ! Bất luận trường hợp nào, đang làm gì, chánh niệm vẫn là thiết yếu”.
Tuy nghe giảng, học kinh là điều cần chánh nhưng quan trọng vẫn nằm trong thật hành...
Tự quán, tự chiếu, tự phát minh chớ đừng nhắm mắt a dua.
Không khai thác, trí tuệ không thể phát sáng.
Không thật thấy thật hiểu, không có giải thoát.
Ngài Hương Nghiêm bạch Tổ Quy Sơn một câu hỏi. Tổ đáp : “Nếu tôi nói thì sau này ông sẽ trách tôi”. Hương Nghiêm phiền lắm, bỏ chùa đi nơi khác. 30 năm nghiềm ngẫm một câu ấy. Một hôm cuốc đất, văng một hòn sỏi vào cây tre, phát ra tiếng “cạch”. Ngài chợt đại ngộ, vội đi tắm rửa, y phục chỉnh tề, thắp 3 nén nhang hướng về núi Quy Sơn, đảnh lễ cúng dường, tạ cái ơn đã không chịu nói.
Từ ngàn xưa, các bậc Thầy Tổ đã thành công chứng quả đều do kiên tâm tự lực hành thiền từng giây phút không ngơi nghỉ, năm này sang năm khác không mỏi nhọc, không chán nản.
𝐊𝐢𝐧𝐡 𝐓𝐮̛́ 𝐍𝐢𝐞̣̂𝐦 𝐗𝐮̛́ bao gồm nhiều pháp môn. Sơ tâm nên vâng lời Phật, tập học tất cả. Các pháp quán để khai tuệ. Điều hòa hơi thở để an định. Có 3 loại hơi thở không điều hòa :
a) Phong : Thở ra vào có tiếng.
b) Suyễn : Kết trệ không thông.
c) Khí : Không nhẹ nhàng. Hơi thở êm dịu gọi là Tức mới dễ an định. Phong thì tán động. Suyễn thì kết trệ. Khí thì lao nhọc. Dụng tâm với 3 loại này chẳng những vô ích mà còn thương tổn.
Cách chữa :
1) Buông tất cả duyên tưởng, nhất tâm an định tinh thần.
2) Thư giãn thân thể, ra vào tự nhiên không câu thúc.
3) Tưởng khắp thân cùng thở, hơi ra vào theo các lỗ chân lông thông suốt. Đủ 3 điều này từ thô vào tế, tự nhiên tâm định, thân an.
Đ𝐢̣𝐧𝐡 𝐭𝐮𝐞̣̂ là hai bánh của chiếc xe, là hai cánh của con chim.
Thiền định không trí tuệ là si phước. Riêng học 𝐭𝐮𝐞̣̂ không có đ𝐢̣𝐧𝐡 thành cuồng. Cái tệ hại của xe một bánh, chim một cánh, thật là thương tâm. Nhưng luận rộng nói sâu thì dễ còn muốn thật rõ chỗ vi diệu phải hạ thủ công phu. Bao giờ sự tu hành đã đắc lực, hành giả muốn nhập định thì tùy ý chọn một môn mà tinh tấn tiến vào.
Hóa Thành chính là đường đến Bảo Sở. Cổ đức dạy : “Lầu cao muôn trượng phải từ đất mà lên”. Lời nói này rất thành thật.
𝙏𝙖̂𝙢 là danh từ chung chỉ cho phần tinh thần của con người.
𝙏𝙝𝙪̛́𝙘 là chức năng phân biệt của tâm.
𝙔́ là chức năng tạo nghiệp của tâm.
Vì ý khơi động lời nói và việc làm. Nếu tác ý là tham sân si thì nghiệp báo sẽ đau khổ. Muốn an vui thì vai trò chủ đạo của ý phải sinh hoạt trong sạch.
— Ý dẫn đầu các pháp.
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm, Ta nói hay hành động, Khổ não sẽ theo ta. Như bánh xe lăn theo hình. Bước chân của con bò.
— Ý dẫn đầu các pháp.
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý thanh tịnh, Ta nói hay hành động, An vui sẽ theo ta. Như bóng chẳng rời.
Đạo Phật khuyên chúng ta hướng nội, chủ yếu để thường xuyên thanh lọc tâm ý. Do đây lời nói việc làm, ứng sự tự nhiên trong sáng thuần thiện.
Như thế hướng nội là để hướng ngoại một cách tốt đẹp, thuần đạo đức, khiến cho ta người hiện tại và vị lai mãi mãi an vui.
( 𝑺𝒖̛ 𝑩𝒂̀ 𝑯𝒂̉𝒊 𝑻𝒓𝒊𝒆̂̀𝒖 𝑨̂𝒎 )
Tags:
Ứng Dụng