Bản dịch của Thượng tọa Thích Huyền Diệu,
Việt Nam Phật Quốc Tự, Lâm Tỳ Ni, Nepal:
Mahamangala Sutta
Kinh Ðại Phước Ðức
Thích Huyền Diệu
(Rev. Dr. Lâm Trung Quốc)
(Rev. Dr. Lâm Trung Quốc)
Lời Giới Thiệu
Nhân dịp quý vị đến viếng Lâm Tỳ Ni, nơi giáng trần của Ðức Phật Thích Ca, một trong bốn Thánh địa quan trọng nhất của Phật Giáo, cùng lúc trú ngụ tại Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa quốc tế đầu tiên tại Lumbini nơi Phật giáng trần.
Hôm nay là ngày trăng tròn tháng bẩy năm Bính Tý 1996. Quý vị là những ngưi Việt Nam đầu tiên đến chiêm bái thánh địa Lâm Tỳ Ni cùng trú ngụ tại "tòa nhà tri ân thầy", Việt Nam Phật Quốc Tự. Tôi rất vui mừng được đón tiếp qúi vị tại ngôi chùa mầu nhiệm và lịch sử nầy. Nhiều vị yêu cầu tôi trích và diễn giảng những đoạn kinh hay của Phật đã thuyết. Tôi rất hoan hỉ nhận lời dịch và giảng về bài kinh Phước Ðức nầy để kính biếu quý vị, cùng hồi hướng và cầu nguyện tất cả đồng tụng, thông hiểu và thực hành để có được tất cả Phước Ðức.
Theo truyền thống các nước Phật Giáo, nhất là các nước theo Nam Tông thì Kinh Ðại Phước Ðức nầy được truyền tụng trong các buổi lễ như là một kinh chú mầu nhiệm. Tu sĩ hoặc Phật Tử thuần thành tin tưởng khi tụng hoặc khi nghe và thực hành kinh nầy thì sẽ gặp được nhiều Phước Ðức, nhiều may mắn và tránh được nhiều tai nạn trong cuộc đời. Người chí thành trì tụng và thực hành kinh Ðại Phước Ðức nầy sẽ được thành công và an lạc dù ở bất cứ nơi nào.
Mahamangala Sutta là một trong những đoạn kinh rất quan trọng trong Tam Tạng kinh điển mà Phật Thích Ca đã thuyết pháp độ sanh. "Maha" nghĩa là "Lớn ; Ðại ; To". "Mangala" nghĩa là "Phước Ðức, điều thiện, sự may mắn, phước lành, gia tài tốt". "Sutta" nghĩa là "Kinh". Mahamangala có thể dịch là Kinh Ðại Phước Ðức hay Kinh Phước Ðức Lớn.
Theo tạng kinh và các tài liệu liên hệ, bài kinh nầy được truyền thống Phật Giáo các nước cho biết rằng nguyên do Phật nói kinh này tại Tu Viện Cấp Cô Ðộc, nơi vườn Thái tử Kỳ Ðà; gần nước Xá Vệ; suốt mười hai năm. Thiên và Nhân đã tranh cãi và bất đồng ý kiến về việc làm cùng ý nghĩa về Phước Ðức.
Vua Phạm Thiên đã theo lời khuyên của Sakka, đại diện đến hỏi Phật về ý nghĩa thật của sự Phước Ðức. Phật Thích Ca đã giải thích tường tận và đã khuyên Thiên cũng như Nhân nên học và thực hành Ba mươi tám điều Phước Ðức để tu thân mình được an lành, hạnh phúc và tất cả những người xung quanh mình cũng đều được Phước Ðức.
Kinh Ðại Phước Ðức được diễn tả trong mười bài kệ.
Mahamangala Sutta
Kinh Ðại Phước Ðức
Chính tôi được nghe như vầy: Một thuở nọ khi Ðức Thế Tôn cư ngụ tại thành Xá Vệ, tại Tu Viện Cấp Cô Ðộc trong vườn Kỳ Ðà. Hôm đó, trời đã về khuya, có một vị Thiên Giả hiện xuống thăm Ngài, hòa quang và vẻ đẹp của Thiên Giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ Ðức Thế Tôn ; vị Thiên Giả đứng sang một bên và cung kính tham vấn Ngài bằng một bài kệ:
Nhiều Thiện Nhân thao thứcSau đây là lời Ðức Thế Tôn :
Muốn biết về Phước Ðức
Ðể sống được an lành
Xin Ðức Thế Tôn chỉ dạy.
Nên tránh kẻ xấu ác (1)
Hãy gần bậc hiền lành (2)
Tôn kính bậc đáng kính (3)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Sống trong môi trường tốt (4)
Ðã tạo tác nhân lành (5)
Ðược đi trên đường chánh(6)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Có học (7), có nghề hay (8)
Biết hành trì giới luật (9)
Biết nói lời ái ngữ (10)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Ðược phụng dưỡng mẹ cha (11)
Yêu thương gia đình mình (12)
Ðược hành nghề an lạc (13)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Sống ngay thẳng (14), bố thí (15)
Giúp quyến thuộc thân bằng (16)
Hành xử không tỳ vết (17)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Tránh không làm điều ác (18)
Nên xa các tội lỗi (19)
Không say sưa nghiện ngập(20)
Tinh cần làm việc lành (21)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Biết khiêm cung (22), lễ độ (23)
Tri túc (24) và biết ơn (25)
Không bỏ việc học đạo(26)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Biết kiên trì (27), phục thiện (28)
Thân cận bậc Thánh Hiền (29)
Dự pháp đàm học hỏi (30)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Sống tinh cần (31), tỉnh thức (32)
Học chân lý nhiệm mầu (33)
Thực chứng được Niết Bàn (34)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Sống chung đụng nhân gian
Tâm không hề lay chuyển (35)
Phiền não hết (36), an nhiên (37)
Sống hoàn toàn an tịnh (38)
Là Phước Ðức lớn nhất.
Cứ sống được như thế
Ði đâu cũng an lành
Tới đâu cũng hạnh phúc
Thật Phước Ðức vô biên
-oOo-Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính biếu và nguyện cầu tất cả chúng sanh đều được nhiều Phước Ðức
Thích Huyền Diệu
Vietnam Lumbini Buddha Bhumi Vihara
P.O Box 4
Siddhartha Nagar (Bhairawa)
Lumbini Zone
NEPAL
Kinh Chân Hạnh Phúc
( Maha Mangala Sutta)
( Maha Mangala Sutta)
- Hoà Thượng Thiện Châu (dịch)
-oOo-
Như
vầy tôi nghe, một thời Thế Tôn ở tại Savatthi, trong rừng Jeta,
vườn Anathapindika. Có một thiên nhân, khi đêm gần tàn, với dung
sắc thù thắng chiếu khắp rừng Jeta, đi đến Thế Tôn. Sau khi đến,
kính lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên, thiên nhân ấy nói lên bài kệ
trước Ðức Thế Tôn như sau:
'' Chư thiên và loài người
Suy nghĩ về hạnh phúc
Ước mong được hạnh phúc
Chân hạnh phúc là gì ?
Thế Tôn đáp kệ rằng:
'' Kẻ si mê nên tránh
Bậc hiền đức phải gần
Cung kính người đáng kính
Ấy là chân hạnh phúc.
Bậc hiền đức phải gần
Cung kính người đáng kính
Ấy là chân hạnh phúc.
Chọn nơi lành mà ở
Ðời trước đã tạo phúc
Nay giữ lòng thẳng ngay
Ấy là chân hạnh phúc.
Ðời trước đã tạo phúc
Nay giữ lòng thẳng ngay
Ấy là chân hạnh phúc.
Hiểu rộng và khéo tay
Giữ tròn các giới luật
Nói những lời hòa ái
Ấy là chân hạnh phúc.
Giữ tròn các giới luật
Nói những lời hòa ái
Ấy là chân hạnh phúc.
Cung dưỡng cha mẹ già
Yêu mến vợ /chồng và con
Không vương vấn phiền hà
Ấy là chân hạnh phúc.
Yêu mến vợ /chồng và con
Không vương vấn phiền hà
Ấy là chân hạnh phúc.
Cho và sống đúng cách
Nên giúp đỡ bà con
Hành động không chê trách
Ấy là chân hạnh phúc.
Nên giúp đỡ bà con
Hành động không chê trách
Ấy là chân hạnh phúc.
Ngăn trừ điều ác xấu
Dứt bỏ thói rượu chè
Chuyên cần trong Chánh Ðạo
Ấy là chân hạnh phúc.
Dứt bỏ thói rượu chè
Chuyên cần trong Chánh Ðạo
Ấy là chân hạnh phúc.
Kính nhường và khiêm tốn
Biết đủ và nhớ ơn
Tuỳ thời học đạo lý
Ấy là chân hạnh phúc.
Biết đủ và nhớ ơn
Tuỳ thời học đạo lý
Ấy là chân hạnh phúc.
Nhẫn nhục vâng ý lành
Viếng thăm bậc tu hành
Tuỳ thời bàn luận đạo
Ấy là chân hạnh phúc.
Viếng thăm bậc tu hành
Tuỳ thời bàn luận đạo
Ấy là chân hạnh phúc.
Trong sạch và siêng năng
Suốt thông các chân lý
Thực hiện vui Niết Bàn
Ấy là chân hạnh phúc.
Suốt thông các chân lý
Thực hiện vui Niết Bàn
Ấy là chân hạnh phúc.
Tiếp xúc với thế gian
Giữ lòng không sa ngã
Bình an, không sầu nhiểm
Ấy là chân hạnh phúc.
Giữ lòng không sa ngã
Bình an, không sầu nhiểm
Ấy là chân hạnh phúc.
Như thế mà tu hành
Việc gì cũng thành tựu
Ở đâu cũng an lành
Ấy là chân hạnh phúc''
========================================================================================================================================================
Bình Anson ghi chép,
tháng 4, 1998
Perth, Western Australia
Kinh Ðại Hạnh Phúc (Kinh Phước Ðức) (Maha Mangala Sutta, Kinh Tập, 258-269) | Discourse on the Greatest Blessings (Maha Mangala Sutta, Suttanipata, 258-269) | |
oOo | oOo | |
Giới thiệu: Bài kinh nổi tiếng nầy, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phước đức trong bài đó là một hướng dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là "lánh xa kẻ xấu ác" vốn căn bản cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phước Ðức đưa đến thành tựu một tâm ý vô tham, vô úy an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong bài kệ là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại. (HT Narada) | Introduction: This famous text, cherished highly in all Buddhist lands, is a terse but comprehensive summary of Buddhist ethics, individual and social. The thirty-eight blessings enumerated in it, are an unfailing guide on life's journey. Rightly starting with "avoidance of bad company" which is basic to all moral and spiritual progress, the Blessings culminate in the achievement of a passion-free mind, unshakable in its serenity. To follow the ideals set forth in these verses, is the sure way to harmony and progress for the individual as well as for society, nation and mankind. (Narada Maha Thera) | |
oOo | oOo | |
Ðây là những điều tôi được nghe. Hồi đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Ðộc, trong vườn Kỳ Ðà. Hôm đó, trời đã vào khuya, có một vị thiên giả hiện xuống thăm người, hào quang và vẻ đẹp của thiên giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên giả xin tham vấn Người bằng một bài kệ: | Thus have I heard. On one occasion the Exalted One was dwelling at Anathapindika's monastery, in Jeta's Grove, near Savatthi. Now when the night was far spent, a certain deity whose surpassing splendour illuminated the entire Jeta Grove, came to the presence of the Exalted One and, drawing near, respectfully saluted him and stood at one side. Standing thus, he addressed the Exalted One in verse: | |
"Thiên và nhân thao thức Muốn biết về phước đức Ðể sống đời an lành Xin Thế Tôn chỉ dạy." | "Many deities and men, yearning after good, have pondered on blessings. Pray, tell me the greatest blessing!" | |
(Ðức Thế Tôn giảng:) "Lánh xa kẻ xấu ác Ðược thân cận người hiền Tôn kính bậc đáng kính -- Là phước đức lớn nhất | (The Exalted One answered:) "Not to associate with the foolish, but to associate with the wise; and to honour those who are worthy of honour -- this is the greatest blessing. | |
"Sống trong môi trường tốt Ðược tạo tác nhân lành Ðược đi trên đường chánh -- Là phước đức lớn nhất | "To reside in a suitable locality, to have done meritorious actions in the past and to set oneself in the right course -- this is the greatest blessing. | |
"Có học, có nghề hay Biết hành trì giới luật Biết nói lời ái ngữ -- Là phước đức lớn nhất | "To have much learning, to be skillful in handicraft, well-trained in discipline, and to be of good speech -- this is the greatest blessing. | |
"Ðược cung phụng mẹ cha Yêu thương gia đình mình Ðược hành nghề thích hợp -- Là phước đức lớn nhất | "To support mother and father, to cherish wife and children, and to be engaged in peaceful occupation -- this is the greatest blessing. | |
"Sống ngay thẳng, bố thí, Giúp quyến thuộc, thân bằng Hành xử không tỳ vết -- Là phước đức lớn nhất | "To be generous in giving, to be righteous in conduct, to help one's relatives, and to be blameless in action -- this is the greatest blessing. | |
"Tránh không làm điều ác Không say sưa nghiện ngập Tinh cần làm việc lành -- Là phước đức lớn nhất | "To loathe more evil and abstain from it, to refrain from intoxicants, and to be steadfast in virtue -- this is the greatest blessing. | |
"Biết khiêm cung lễ độ Tri túc và biết ơn Không bỏ dịp học đạo -- Là phước đức lớn nhất | "To be respectful, humble, contented and grateful; and to listen to the Dhamma on due occasions -- this is the greatest blessing. | |
"Biết kiên trì, phục thiện Thân cận giới xuất gia Dự pháp đàm học hỏi -- Là phước đức lớn nhất | "To be patient and obedient, to associate with monks and to have religious discussions on due occasions -- this is the greatest blessing. | |
"Sống tinh cần,tỉnh thức Học chân lý nhiệm mầu Thực chứng được Niết Bàn -- Là phước đức lớn nhất | "Self-restraint, a holy and chaste life, the perception of the Noble Truths and the realisation of Nibbana -- this is the greatest blessing. | |
"Chung đụng trong nhân gian Tâm không hề lay chuyển Phiền não hết, an nhiên, -- Là phước đức lớn nhất | "A mind unruffled by the vagaries of fortune, from sorrow freed, from defilements cleansed, from fear liberated -- this is the greatest blessing. | |
"Ai sống được như thế Ði đâu cũng an toàn Tới đâu cũng vững mạnh Phước đức của tự thân." | "Those who thus abide, ever remain invincible, in happiness established. These are the greatest blessings." | |
(dựa theo bản dịch Việt ngữ của HT Thích Nhất Hạnh) | (based on the English translation by Narada Maha Thera) |